Saturday, December 5, 2009

Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương (1772-1822) (Hán Tự: ) was a Vietnamese poet born at the end of the Lê Dynasty who grew up in an era of political and social turmoil: the time of the Tây Sơn rebellion and the reactionary rule of Nguyễn Ánh. She wrote poetry using the Chữ nôm script. She is considered one of Vietnam's greatest poets, such that she is dubbed "the Queen of Nôm poetry" by Xuân Diệu, a prominent, modern Vietnamese poet.

The facts of her life are difficult to verify but this much is well established. She was born in Nghệ An province near the end of the rule of the Trịnh Lords, and she moved to Hanoi while still a child. The best guess is that she was the youngest daughter of Ho Phi Dien.

According to the first researchers about Ho Xuan Huong like Nguyen Huu Tien and Duong Quang Ham, she was Mr. Ho Phi Dien's daughter (born in 1704) at Quynh Doi Village, Quynh Luu District, Nghe An Province (*).

He acquired the baccalaureate diploma at his age of 24 under Le Bao Thai's Dysnasty. Due to his family's poverty, he had to work as a tutor in Hai Hung, Ha Bac for his earnings. At that place, he got cohabitation with a girl from Bac Ninh as a concubine - Ho Xuan Huong was born as a result of that love affair.

Nevertheless, as per a newly-launched document (in the Literature Magazine No. 10 - 1964) by the literature researcher, the late Professor Tran Thanh Mai, Ho Xuan Huong's hometown was the same as mentioned above, but she was Mr. Ho Si Danh's daughter (1706-1783) and a younger stepsister with Ho Si Dong (1738-1786)"

She became locally famous and obtained a reputation of creating poems that were subtle and witty. She is believed to have married twice as her poems refer to two different husbands: Vinh Tuong (a local official) and Tong Coc (a slightly higher level official). She was the second-rank wife of Tong Coc, in Western terms, a concubine, a role that she was clearly not happy with ("like the maid/but without the pay"). However, her second marriage did not last long as Tong Coc died just six months after the wedding.

She lived the remainder of her life in a small house near the West Lake in Hanoi. She had visitors, often fellow poets, including two specifically named men: Scholar Ton Phong Thi and a man only identified as “The Imperial Tutor of the Nguyen Family.” She was able to make a living as a teacher and evidently was able to travel since she composed poems about several places in Northern Vietnam.

A single woman in a Confucian society, her works show her to be independent-minded and resistant to societal norms, through her social-political commentaries and use of sexual humour or expressions. Her poems are usually irreverent, full of double entendres, but erudite. The sexual allusions in her work are ambiguous, however, though this may be more a result of the translation.

By composing the vast majority of her works in Nôm she helped elevate the status of Vietnamese as a literary language in Vietnamese literature in the 1800s. However, recently some of her poems have been found which were composed in classical Chinese, so she was not a purist. In modern times, chữ nôm is nearly a dead script having been supplanted by Quốc ngữduring the period of French colonization. For details see Vietnamese language. Some of her poems were collected and translated in John Balaban's work Spring Essence (Copper Canyon Press, 2000, ISBN 1 55659 148 9).

Another important Vietnamese poet and her contemporary is Nguyễn Du.

Chợ Trời
by Hồ Xuân Hương


Khen thay con Tạo khéo trêu ngươi.
Bày đặt ra nên cảnh chợ Trời!
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bầy hàng hoa quả tư mùa sẵn,
Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.
Bán lợi, buôn danh nào nhương kẻ,
Chẳng nên mặc cả một đôi lời.


Đánh Đu
by Hồ Xuân Hương


Tám cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới.
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân ai biết xuân chăng tái!
Cột nhổ đi rồi, lõ bỏ không.


Bánh Trôi Nước
by Hồ Xuân Hương


Thân em vừa trắng, lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.


Đền Thái Thú
by Hồ Xuân Hương


Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.


Đền Trấn quốc
by Hồ Xuân Hương


Ngoài cửa hành cung cỏ dãi dầu,
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau!
Một tòa sen lạt hơi hương ngự,
Năm thức mây phong điểm áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộn.
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Người xưa, cảnh cũ đâu đâu tá?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.


Đồng tiền hoẻn
by Hồ Xuân Hương


Cũng lò cũng bể, cũng cùng than,
Mở mặt vuông tròn với thế gian.
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
Đủ đồng ắt cũng đóng nên quan.


Động Hương Tích
by Hồ Xuân Hương


Bày đặt đá ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lõ hỏm hòm hom,
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm
Giọt nước hươu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom khọm
Lam tuyền quyết cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già để dở dom


Đánh Cờ
by Hồ Xuân Hương


Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Để đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.

Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.

Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Đem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.

Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà


Đèo Ba Dội
by Hồ Xuân Hương


Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.

(1) Đèo Ba Dội hay Ba đèo tên chữ là đèo Tam Điệp, thuộc huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá.


ốc nhồi
by Hồ Xuân Hương


Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.
Quân tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.


Bọn đồ dốt
by Hồ Xuân Hương


Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên.
Ai về nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống, đem vôi quét trả đền


Bà lang khóc chồng
by Hồ Xuân Hương


Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì ?
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi, thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay đắng, chàng ơi, vị quế chi.
Thạch nhũ, trần bì, sao để lại,
Quy thân, liên nhục, tẩm mang đi.
Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ ?
Sinh kỳ, chàng ơi, tử tắc quy.


Cảnh làm lẽ
by Hồ Xuân Hương


Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa, nên chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không ...
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.


Cảnh Thu
by Hồ Xuân Hương


Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,
Xanh ôm cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu.
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.
Ơ hay, cánh cương ưa người nhỉ,
Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.


Cái quạt giấy - bài 1
by Hồ Xuân Hương


Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dáng tự ngàn xưa.
Vành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ?


Cái quạt giấy - bài 2
by Hồ Xuân Hương


Mười bảy hay là mười tám đây?
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
Mỏng dầy chừng ấy chành ba góc,
Rộng hẹp dường nào cắm một cây.
Càng nóng bao nhiêu càng muốn mát,
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.


Chơi Đền Khán Xuân
by Hồ Xuân Hương


Êm ái chiều xuân tới khán đài,
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai !
Bà hồi triêu mộ chuông gầm sóng,
Một vương tang thương nước lộn trời.
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá,
Cực lạc là đây chín rõ mười.


Chửa hoang
by Hồ Xuân Hương


Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm có thấy hỡi chăng chàng?
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đành nẩy nét ngang
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có nhưng mà có mới ngoan.


Chùa Hương
by Hồ Xuân Hương


Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom khom.
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom.


Chùa quán sứ
by Hồ Xuân Hương


Quán sứ sao mà cảnh vắng teo,
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo.
Sáng banh không kẻ khua tang mít,
Trưa trật nào người móc kẽ rêu.
Cha kiếp đường tu sao lắt léo,
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo.


Chùa xưa
by Hồ Xuân Hương


Thày tớ thung dung dạo cảnh chùa,
Thơ thì lưng túi, rượu lưng hồ.
Cá khe lắng kệ, mang nghi ngóp,
Chim núi nghe kinh, cổ gật gù.
Then cửa từ bi chen chật cánh,
Nén hương tế độ cắm đầy lô.
Nam mô khẽ hỏi nhà sư tí,
Phúc đức như ông được mấy bồ?
Quán Nước Bên Đường
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Đường đi thiên thẹo, quán cheo leo.
Lợp lều, mái cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ, kèo tre đốt khẳng kheo.
Ba trạc cây xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biếc, cỏ leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai thả lộn lèo.


Con cua
by Hồ Xuân Hương


Em có mai xanh, có yếm vàng,
Ba quân khiêng kiệu, kiệu nghêng ngang.
Xin theo ông Khổng về Ðông Lỗ,
Học thói Bàn Canh nấu chín Thang.


Dệt vải
by Hồ Xuân Hương


Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,
Con cò mấp máy suốt đêm thâu.
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.
Rộng, hẹp, nhỏ, to, vừa vặn cả.
Ngắn, dài, khuôn khổ cũng như nhau.
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ,
Chờ đến ba thu mới dãi mầu.


Dỗ Bạn Khóc Chồng
by Hồ Xuân Hương


Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng.
Nín đi kẻo thẹn với non sông.
Ai về nhắn nhủ đàn em nhé.
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung.


Duyên kỳ ngộ
by Hồ Xuân Hương


Nghìn dặm có duyên sự cũng thành,
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh.
Tấc gang tay họa thơ không dứt,
Gần gụi cung dương lá vẫn lành.
Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện,
Trống mang dùi cắp đã phanh phanh.
Tuy không thả lá trôi dòng ngự,
Chim tới vườn đào thế mới xinh.


Giếng nước
by Hồ Xuân Hương


Ngõ sâu thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng ấy thanh tân, giếng lạ lùng.
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nuớc trong leo lẻo một dòng thông!
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá giếc le te lách giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai đã biết?
Đố ai dám thả nạ rồng rồng


Giễu quan Hậu
by Hồ Xuân Hương


Tình cảnh ấy, nước non này,
Dẫu không Bồng Đảo cũng tiên đây.
Hoành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn,
Thúy lĩnh đen trùm một thức mây.
Lấp ló đầu non vừng nguyệt chếch,
Phất phơ sườn núi lá thu bay.
Hỡi người quân tử đi đâu đó?
Đến cảnh sao mà đứng lượm tay.


Già kén kẹn hom
by Hồ Xuân Hương


Bụng làm dạ chịu trách chi ai,
Già kén kẹn hom ví chẳng sai.
Tiếc đĩa hồng ngâm cho chuột vọc,
Thừa mâm bánh ngọt để ngâu vầy.
Miệng khôn trôn dại đừng than phận,
Bụng ỏng lưng eo chớ trách trời!
Đừng đứng núi này trông núi nọ,
Đói lòng nên mới phải ăn khoai.


Hỏi cô hàng sách
by Hồ Xuân Hương


Cô hàng lấy sách cắp ra đây!
Xem thử truyện nào thú lại say.
Nữ tú có bao xin xếp cả,
Phương hoa phỏng liệu có còn hay ...?
Tuyển phu mặc ý tìm cho kỹ,
Chinh phụ thế nào bán lấy may.
Kỳ ngộ bích câu xin tiện hỏi,
Gía tiền cả đó tính sao vay.


Hỏi Trăng
by Hồ Xuân Hương


Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn.
Hỏi con bạch thố đà bao tuổi,
Hở chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm tối cớ chi soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son.
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non?


Hang cắc cớ
by Hồ Xuân Hương


Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
Con đường vô ngạn tối om om.
Khen ai đẽo đá, tài xuyên tạc,
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm.


Hang Thanh hóa
by Hồ Xuân Hương


Khen thay con tạo khéo khôn phàm,
Một đố dương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá cỏ leo, rờ rậm rạp.
Lách khe nước rỉ, mó lam nham.
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai tiể lưng tròn đứng giữ am.
Đến mới biết rằng hang Thanh Hóa,
Chồn nhân, mỏi gối, hãy còn ham.


Kiếp Tu Hành
by Hồ Xuân Hương


Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Ṿây mà chút tẻo tèo teo
Thuyền cừ cương muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn leo.


Mời ăn Trầu
by Hồ Xuân Hương


Quả cau, nho nhỏ, miếng trầu ôi,
Này của Xuân Hương đã quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.


Nhà Sư
by Hồ Xuân Hương


Chẳng phải là Ngô, chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lốc, áo không tà.
Oản dâng trước mặt, năm ba phẩm,
Vãi mọp sau lưng, bảy tám bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,
Giọng hì, giọng hí, giọng hi ha.
Tu lâu có lẽ lên sư cụ,
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà!


Quả Mít
by Hồ Xuân Hương


Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dầy
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó, nhựa ra taỵ


Qua kẽm trống
by Hồ Xuân Hương


Hai bên thì núi, giữa thì sông,
Có phải đây là kẽm Trống không?
Gió đập cành cây khua lắc cắc,
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
trong hang đá hơi còn hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại,
Nào ai có biết nỗi bưng bồng.


Quan Thị
by Hồ Xuân Hương


Mười hai bà mụ ghét chi nhau?
Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu?
Rúc rích thây cha con chuột lắt,
Vo ve mặc kệ cái ong bầu.
Đố ai biết được vông hay chóc,
Còn kẻ nào hay cuống với đầu.
Thôi thế thì thôi, thôi cũng được,
Nghìn năm khỏi bị tiếng nương dâu.


Sư bị làng đuổi
by Hồ Xuân Hương


Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo.
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.


Sư bị ong châm
by Hồ Xuân Hương


Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,
Đi đâu chẳng đội để ong châm.
Đầu sư há phải gì bà cốt,
Bá ngọ con ong bé cái lầm.


Sư Hổ Mang
by Hồ Xuân Hương


Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta
Đầu thì trọc lốc, áo không tà .
Oản dân trước mặt dăm ba phẩm,
Vãi núp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cành, khi tiu, khi chũm chọe,
Giọng hí giọng hỷ, giọng hi ha.
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà


Tức Cảnh Tề Sở
by Hồ Xuân Hương


Đằng quốc tôi nay vốn nhỏ nhen,
Hai bên Tề Sở giươa mà len,
Ngảnh mặt lại Tề e Sở giận,
Quay đầu về Sở sợ Tề ghen.


Tự Tình 1
by Hồ Xuân Hương


Canh khuya văng vẳng trống canh dồn.
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,
Vừng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.


Tự tình - bài 2
by Hồ Xuân Hương


Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không thua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử , văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom.


Tự tình - bài 3
by Hồ Xuân Hương


Chiếc bánh buồn vì phận nổi nênh,
Giữa dòng ngao ngán nỗi lêng đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,
Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.


Tát Nước
by Hồ Xuân Hương


Đang cơn nắng cực chửa mưa tè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm,
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be.
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,
Nhấp nhỏm bên bờ đít vắt ve.
Mải miết làm ăn quên cả mệt,
Dang bang một lúc đã đầy phe.


Thương
by Hồ Xuân Hương


Há dám thương đâu kẻ có chồng,
Thương vì một nỗi hãy còn không.
Thương con cuốc rũ kêu mùa Hạ,
Thương cái bèo non giạt bể Đông.
Thương cha mẹ nhện vương tơ lưới,
Thương vợ chồng Ngâu cách mặt sông.
ấy thương quân tử thương là thế,
Há dám thương đâu kẻ có chồng.


Thiếu nữ ngủ ngày
by Hồ Xuân Hương


Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên nước chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.


Tranh hai Tố nữ
by Hồ Xuân Hương


Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Phiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh.
Còn thú vui kia sao chẳng thấy,
Trách ông thợ vẽ khéo vô tình!


Vịnh cái quạt
by Hồ Xuân Hương


Vịnh cái quạt (1)

Mười bảy hay là mười tám đây
Cho ta yêu dấu chẳng dời tay.
Mỏng dày từng ấy, chành ba góc
Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay.
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát.
Yêu đêm chưa phi lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy.
Chúa dấu vua yêu một cái này.

Vịnh cái quạt (2)

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dán tự bao giờ,
Chành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?